Tên di sản : Bia ký – Đền thờ bà Mai Thị Triều
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 2328/QĐ - UBND
Giới thiệu
Theo tài liệu khảo sát nghiên cứu thực địa tại làng Mai (Giáp Mai) và các xã trong vùng có liên quan đến đền Đại Vương Tôn Sư Bà Tuyên Từ Ngọc Nữ và Bia Ký họ Mai tại làng Mai, Từ xa xưa làng Mai – Giáp Mai là một khu đất cát pha tương đối bằng phẳng chưa có người khai phá, đến cuối thế kỉ XV, người họ Mai đã chiêu dân lập ấp, khai phá gieo cấy. Đến cuối thế kỉ XVI, ở đây dân cư đã đông đúc. Theo gia phả và các câu chuyện truyền miệng, Bà Ngọc Nữ đã cùng cha quân đánh giặc, hộ lương để nuôi quân. Bà là người có tư thái nối thừa quẻ tốn, thuận hòa, phẩm chất lẫm liệt, khôn ngoan nhu mì, đức độ, cung kính hòa hợp, nhân từ cứu chẩn đã lâu ở quê hương, xứng đáng là bậc hậu thần, là bậc tôn thần của họ, của Giáp Mai, được nhân dân khắp vùng cung kính ngưỡng mộ. Bà mất ngày 26 tháng 9.
Nên các ngày tế lễ quanh năm có xuân thu nhị kì vào Rằm tháng tư và Rằm tháng 9. Ngày lễ nhân dân các làng, xã quanh vùng đều đến tham dự.
Đền thờ Đại Vương Tôn Sư Bà Ngọc Nữ được đặt hướng Nam. Trước mặt có núi Ngọc làm cồn án tiền. Phía hữu (tây) có dãi đất cao chạy dài từ nam qua bắc, xa khoảng 8m có dòng sông cổ (khe lạnh), bên tả (đông) có lạch nước thủy triều - một công trình trị thủy từ thời Lê Hoàn thế kỉ X, nhân dân quen gọi là sông Lê, hay còn gọi là sông Cầu Hang, nhìn ra xa gần 100m là mép nước biển, dãy núi đá, đá lẫn đất như bức tường thành chạy suốt từ Tây Nam vòng qua bắc xuống phía Đông, như vành long ngai, một dải đất có Long chầu, thủy tụ, dòng sông Lê ở đây chảy từ Đông Bắc lượn vòng qua Tây Bắc theo dãy núi, rồi uốn khúc xuống Đông Nam, lượn qua phía nam về tụ trước đến rồi chảy vòng qua phía Đông Nam ra biển.
Huyện Tĩnh Gia là một dải đất hẹp kéo dài từ bắc xuống nam, phía Tây là xen kẽ các ngọn núi, dọc theo núi có dòng chảy của sông Lê cũng từ bắc vào nam, phía Đông là những dải đất cát nối tiếp nhau, cách không xa là mép nước biển. Huyện Tĩnh Gia có vị trí chiến lược quan trọng, khu vực này lại chiếm vai trò chiến lược đặc biệt đó.
Khu vực đền có một cảnh đẹp, có thể nói là thắng cảnh. Di tích đền thờ Đại Vương Tôn Sư Bà Ngọc Vũ họ Mai bao gồm 2 khu vực.
Khu vực lăng mộ Đại Vương Tôn Sư bà Ngọc Nữ là một vùng đất rộng trước Đền Bà, thuộc thửa đất số: 1/3 diện tích 1865m2.
Nói lăng mộ nhưng thực tế hiện tại là một gò đất cao, còn nhiều viên đá chõm cao, nhân dân địa phương vẫn thường xuyên hương khói. Ở đây thực sự là khu “mộ cấm”, dân vùng này thực sự thiếu chất đốt, kể cả có nhiều người, mà đại thể là dân quét lá về đun nấu nhưng ở đây khu mộ cấm không may có một ai quét đến lá, nhặt cành khô, đặc biệt đến nỗi cũng không ai dám chặn thả trâu, bò vào khu vực. Cây to ở đây thì ít nhưng rất cổ, có nhiều cây sống, cây khô chết có, mưa bão đổ có, nằm đó, đứng đó, không ai dám lấy. Chỉ một niềm thành kính ơn đức Đại Vương Tôn Sư Bà Ngọc Nữ Mai Thị Triều, thụy Mẫu Khanh sự linh thiêng.
Ngày xưa ở đây có thượng sàng hạ mộ. Nghĩa là trên xây miếu, dưới có mộ. Miếu thờ dựng cột, xây tường nhưng do sự tồn tại lâu ngày, lại trong rừng cấm nên ít có điều kiện, quét dọn mối, phần khác do điều kiện biến thiên lịch sử nên không ai dám đến trông nom. Do đó, miếu bị mối xông nên bị sập đổ nát, hiện nay tại đây chỉ còn nơi cắm hương, bia thì chuyển về đền từ lâu.
Còn mộ thì các cụ “bí mật”, nên là tổ mộ trong khu, hay nhất khu, không xác định cụ thể, nên cần thiết phải bảo vệ cả khu vực này làm nơi tham quan du lịch, và nó như bức thiên nhiên trước đền, đây là một loại rừng phòng hộ chống gió Lào và cát xoáy trong mùa gió xoáy, nên cần thiết bảo vệ nguyên trạng và cần trồng cây bổ sung, mở rộng và tôn tạo lại miếu cho nó thêm nghiêm.
Đền thờ Đại Vương Tôn Sư bà Ngọc Nữ Mai Thị Triều, thụy là Mẫu Khanh phu nhân, hay còn gọi là Qúy Thanh Tuyên từ Ngọc Nữ. Đền thờ được xây cất ở phía bắc khu mộ cấm, cách 100m. Đền xây cất trên thửa đất số 38 với diện tích 1105m2.
Đền có diện tích xây dựng gồm: bức bình phong, sân ngoài, sân trong. Nhà bia Điện chính, nhà khách. Tổng diện tích: 1105m2.
Đền là ngôi nhà ba gian. Dài 9m, rộng 6m, diện tích đền là 54m2.
Đền vốn là một ngôi nhà cổ, nhưng do xây dựng lâu ngày và biến thiên lịch sử đều bị mối mọt nghiêm trọng nên đã tháo dỡ phần gỗ để tôn tạo lại, còn phần nền móng vẫn như cũ, mà gia cố nâng cao hơn. Phần nâng hiên xây cột gạch, chắn mái hiên mở rộng hiên gia tam cấp. Trong nhà đền thì sửa lại nên phần gỗ kiến trúc đơn giản, theo kiểu kẻ chuyền, quá giang, trụ, cân đầu, trên là trụ non giá chuông, xà hoành, xà hoành tải bằng gỗ lim, rui mè gỗ lim, lợp 2 lớp: ngói lót và ngói vẩy, hai bên bờ chảy có đắp các con giốn.
Phần sân trong lát gạch vuông dài 12m, rộng 8m. Phía đông của sân là nhà bia chính giữa sân trong và sân ngoài là bức bình phong cuốn thư cổ. Bức bình phong dài 2m, dày 0,30m, cao 1,8m. Bình phong được xây gạch trát vữa, trang trí cầu kì các đường viền.
Phía đông đền có 1 ngõ ống.
Phía tây vốn là nhà ở của trưởng họ, nhưng do nhu cầu thờ tự, thì đây là ngôi nhà thử từ và là nhà khách. Ở giữa cạnh phía đông của sân là nhà bia và tấm bia cổ được dựng từ năm 1666.
Bia chia làm 2 phần: Bệ và bia
Bệ và bia vốn là rùa đội bia, hiện nay rùa bị thất lạc, bia đặt trên bệ xi măng.
Bia Đại Vương Tôn Sư Bà Ngọc nữ cao 0,96m; rộng 0,60m; dày 0,15m. Niên đại Hoàng Triều Cảnh Trị năm đầu (1663).
Bia khắc chữ hai mặt. Trán bia hình bán nguyệt, trang trí cả hai mặt hình lưỡng long chầu nhật nguyệt, đường nét uyển chuyển. Hai riềm bia trên trang trí hình hoa lá dây leo chen lẫn cách điệu, có nhiều họa tiết, nhưng nhìn chung hoa lá chanh hoặc 6 cánh, hoặc 8 cánh, loại 6 cánh 1 lớp, loại 8 cánh là 2 lớp, lá thì có 3 loại hoặc lá mướp dây leo tay mướp, hoặc lá dương xỉ, cánh lá dài, răng cưa, sống lá nổi. Riềm đáy là trang trí hoa văn vân núi chen lẫn sóng nước, nhiều lớp chồng lên nhau.
Đây là tấm bia có giá trị nghệ thuật cao cho việc nghiên cứu điêu khắc đá, cũng như các họa tiết trang trí hình thức bố cục chặt chẽ, hài hòa, độc đáo.
Khu lăng mộ bậc Tôn Sư Bà Ngọc Nữ Đại Vương được đặt trên một gò đất cao trước đền với diện tích: 1865m2.
Đặc biệt khu một đặt trong một khung cảnh có vị trí địa lí hài hòa, tiền án, hậu chẩm tả thanh long, hữu bạch hổ (thế đất rồng chầu, phục, có núi trước sau) thật là tỉnh mục mà dân cả vùng đều kính ngưỡng.